Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Bấm huyệt chữa liệt dây thần kinh VII ngoại biên

Liệt dây thần kinh VII ngoại biên y học cổ truyền mô tả trong chứng khẩu nhãn oa tà. Bệnh do nhiều nguyên nhân như do nhiễm lạnh (trúng phong hàn), do nhiễm khuẩn (trúng phong nhiệt ở kinh lạc), do ứ huyết (sang chấn sau mổ hay ngã, thương tích...).  Đa số các trường hợp liệt dây VII ngoại biên do lạnh, do ứ huyết chữa bằng y học cổ truyền cho kết quả tốt. Trong điều trị thường phối hợp nhiều phương pháp như dùng thuốc uống, châm cứu, tiêm thuốc vào huyệt, điện châm, lý liệu pháp, xoa bóp... Sau đây là một số bài thuốc chữa trị bệnh này.
Bài thuốc chữa liệt dây thần kinh VII ngoại biên 1
Day ấn huyệt toản trúc.
Bài thuốc chữa liệt dây thần kinh VII ngoại biên 2
Day huyệt hợp cốc.
Liệt dây thần kinh do lạnh
Y học cổ truyền gọi trúng phong hàn ở kinh lạc.
Triệu chứng: sau khi gặp mưa, gió lạnh, người bệnh tự nhiên mắt không nhắm được, miệng méo cùng bên với mắt, uống nước trào ra, không huýt sáo được, toàn thân sợ lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch phù.
Phương pháp chữa: khu phong tán hàn, hoạt lạc (hoạt huyết, hành khí).

Kết hợp châm cứu hoặc day ấn các huyệt: ế phong, dương bạch, toản trúc, tình minh, ty trúc không, đồng tử liêu, thừa khấp, nghinh hương, giáp xa, địa thương, nhân trung, thừa tương; toàn thân thêm huyệt hợp cốc, phong trì.
Liệt dây thần kinh VII ngoại biên do nhiễm khuẩn
Y học cổ truyền gọi trúng phong nhiệt ở kinh lạc.
Triệu chứng: người bệnh mắt không nhắm được, miệng méo cùng bên với mắt, uống nước trào ra, không huýt sáo được, toàn thân sốt, sợ gió, sợ nóng, rêu lưỡi dầy, trắng, mạch phù sác. Sau khi hết sốt, bệnh nhân chỉ còn tình trạng liệt dây VII ngoại
Kết hợp châm cứu hoặc day bấm các huyệt như bài trên; toàn thân thêm huyệt khúc trì, nội đình.
Liệt dây thần kinh VII ngoại biên do sang chấn
Y học cổ truyền gọi ứ huyết ở kinh lạc.
Triệu chứng: gồm các triệu chứng liệt dây thần kinh VII như đã trình bày ở phần trên. Nguyên nhân do sang chấn như sau ngã, bị thương tích, sau mổ vùng hàm mặt, xương chũm...

Vị trí các huyệt:
Ế phong: Phía sau dái tai, chỗ lõm giữa góc hàm dưới và gai xương chũm.
Dương bạch: Mắt nhìn ngang tầm, huyệt ở trên lông mày 1 tấc chiếu thẳng xuống đồng tử.
Toản trúc: Huyệt ở trong hố lõm lông mày.
Tình minh: Trên góc khóe mắt trong 0,1 tấc.
Ty trúc không: Chỗ lõm mé ngoài đuôi lông mày.
Đồng tử liêu: Khóe mắt ngoài đo ra 0,5 tấc.
Thừa khấp: Trên bờ hốc mắt dưới.
Nghinh hương: Cạnh cánh mũi 0,5 tấc.
Giáp xa: Ở phía trên trước góc xương hàm dưới, chỗ khi dùng sức cắn răng thì cơ nổi lên.
Địa thương: Từ mép miệng đo ra 0,5 tấc.
Nhân trung: Chỗ giáp 1/3 trên và 2/3 dưới đường chính giữa rãnh mũi môi.
Thừa tương: Huyệt ở chính giữa rãnh môi dưới.
Hợp cốc: Hoặc khép ngón trỏ và ngón cái sát nhau, huyệt ở điểm cao nhất của cơ bắp ngón trỏ ngón cái.
Phong trì: Bờ xương chẩm, chỗ lõm sau tai.
Khúc trì: Co khuỷu tay, huyệt ở đầu mép ngoài đường vân khuỷu tay.
Huyệt nội đình: kẽ ngón chân 2 - 3.
Huyết hải: Mặt trước trong đùi, từ xương bánh chè đầu gối đo lên 2 thốn. Hoặc ngồi đối diện với bệnh nhân, bàn tay phải của thầy thuốc đặt trên xương bánh chè bên trái của bệnh nhân, 4 ngón tay áp tại đầu gối, ngón cái ở phía trên đùi, chỗ đầu ngón cái là huyệt.
Túc tam lý: Úp lòng bàn tay vào giữa đầu gối, đầu ngón tay giữa chạm vào xương ống chân (xương chày), từ đó ngang ra phía ngoài 1 tấc là huyệt. Hoặc huyệt ở dưới lõm ngoài xương bánh chè (huyệt độc tỵ) 3 tấc.
 Lương y Đình Thuấn

1 nhận xét: