Tai biến mạch máu não (TBMMN) là bệnh lý để lại những di
chứng nặng nề nếu không được cấp cứu và điều trị kịp thời. Bên cạnh việc
cấp cứu bằng Tây y, cấp cứu cho những trường hợp bị tai biến mạch máu
não chưa gây vỡ mạch còn có thể thực hiện bằng phương pháp xoa bóp, bấm
huyệt.
Phương pháp xoa bóp bấm huyệt
cũng có tác dụng tốt để phục hồi chức năng cho những trường hợp bị di chứng do TBMMN.
TBMMN do nguyên nhân nào?
Bấm huyệt thận du.
Bấm huyệt hợp cốc.
Bấm huyệt phế du.
Theo BS. Lê Đình Yên, Phó trưởng Khoa dưỡng sinh - xoa bóp - bấm
huyệt, Bệnh viện Tuệ Tĩnh, TBMMN theo y học cổ truyền gọi là trúng phong
hàn (gió lạnh).
Ngoài ra còn do bệnh nhân sinh hoạt không điều độ, uống rượu nhiều, vui, buồn, giận dữ thất thường.
Có 2 dạng trúng phong: tạng phủ (bên trong) và kinh lạc (bên ngoài).
Trúng phong kinh lạc: tự nhiên liệt nửa người, không biểu hiện hôn
mê. Trường hợp nhẹ chỉ liệt một tay, một chân hoặc liệt mặt, nói méo
tiếng. Nếu nặng
thì liệt nửa người, hạn chế vận động, miệng méo, nói ngọng, hoa mắt,
chóng mặt, đau đầu, mắt nhắm không kín, ăn khó nuốt. Mạch huyền. Nếu
bệnh nhân đàm
nhiều có thể thấy ậm ạch, thở khò khè.
Trúng phong tạng phủ chia làm 2 chứng quan trọng là chứng bế và chứng
thoát. Chứng bế có các triệu chứng: tự nhiên liệt nửa người, hôn mê bất
tỉnh nhân
sự, hai tay nắm chặt, người co quắp, hai hàm răng nghiến chặt, thở khò
khè, không có mồ hôi, táo bón, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ hoặc hơi
vàng.
Chứng thoát, bệnh nhân thấy mệt mỏi, chân tay tê buồn, bại, xảy ra
khi bệnh nhân đang nằm ngủ là tai biến do can phong (nội động), y học
hiện đại gọi là
các biểu hiện bệnh do tim mạch. Khi bệnh nhân mắc chứng bế hay thoát (y
học hiện đại gọi là liệt do nhồi máu cơ tim) thì không được xử trí bằng y
học cổ
truyền mà phải cấp cứu bằng y học hiện đại.
Nguyên tắc sơ cứu khi gặp TBMMN
Với những trường hợp vỡ mạch máu não (bệnh nhân đột nhiên ngã qụy,
hôn mê, thường xảy ra ở những bệnh nhân có tiền sử tim mạch, tăng huyết
áp, tiểu đường)
phải cấp cứu bằng y học hiện đại. Các trường hợp tai biến do co thắt
mạch có thể xử trí bấm huyệt, hiệu quả cao, không để lại di chứng. Tùy
theo từng bệnh
nhân, sau 1 tuần có thể khỏi. Dấu hiệu nhận biết trường hợp co thắt
mạch máu não do xoắn, chèn ép, bệnh nhân thấy triệu chứng đau đầu, buồn
nôn, hoa mắt
chóng mặt dẫn đến liệt nửa người hoặc liệt hoàn toàn.
Các huyệt thường dùng để cấp cứu
Nếu bệnh nhân hôn mê, bất tỉnh nhân sự: bấm huyệt nhân trung, trích
máu huyệt thập tuyền (nặn máu 10 đầu ngón tay ra ngoài), nếu bệnh nhân
có hiện tượng
biết đau nhưng chưa vận động được, có cảm giác nóng lạnh thì bấm huyệt
đại đôn, hành gian, thái trung (ở rãnh khe xương bàn 1 và xương bàn 2
bàn chân),
hợp cốc (ở giữa ngón cái và ngón trỏ). Sau khi bệnh nhân co được chân và
kêu đau nghĩa là có tiến triển tốt. Nếu bệnh nhân không co được chân,
không biết
đau là tiên lượng xấu, có thể dẫn đến tử vong. Nếu tiến triển tốt bấm
huyệt túc tam lý, dương long tuyền, tam âm giao, nội quan, hoa đà giáp
tích và
phong trì, thận du, thần môn.
Các huyệt thường dùng trong phục hồi
Điều trị bại liệt do di chứng tai biến mạch máu não, liệt nửa người
là phương pháp khu phong, tán hàn, trừ thấp, thông kinh hoạt lạc, bổ
gan, thận. Nếu
có méo mặt, mồm, liệt dây thần kinh số 7 bấm huyệt địa thương, giáp sa,
nghinh hương, xế phong, tình minh, nhân trung, thừa tương, đầu duy, bách
hội, bấm
ngày/lần, bấm 15 ngày nghỉ 2 ngày. Bệnh lâu bấm tuần 2 lần đến khỏi thì
thôi. Thủ thuật xoa, miết, phân, hợp, véo, ấn, bấm. Trình tự xoa bóp
bệnh nhân
có thể nằm hoặc ngồi và thầy thuốc xoa bóp theo thủ thuật trên, thời gian từ 10-15 phút ở vùng mặt.
Với vùng lưng và chi dưới để điều trị liệt nửa người day, ấn huyệt
thận du, mệnh môn, xoa bóp chi dưới, xoa vùng mông, đùi, cẳng chân, bàn
chân. Day các
huyệt trên đường đi của thần kinh tọa và kinh bàng quang như huyệt hoàn
khiêu, trật biên, thừa phù, ủy trung, thừa sơn, côn lôn. Day bóp, lăn,
vờn, vận
động, rung, vê các ngón chân trong khi day và rung tạo ra một loại sóng
cảm giác kích thích từ huyệt về vỏ não và đường dẫn truyền có thể được
kích thích
kéo dài làm cơ thể tự điều chỉnh. Người yếu, gầy dùng bổ pháp (thủ thuật
nhẹ nhàng, chậm rãi, thuận đường kinh), bệnh cấp tính, người khỏe làm
tả pháp:
nhanh mạnh. Người béo làm tiêu đàm, trị thấp (đàm là tắc, thấp nặng nề, ẩm ướt), bấm thêm huyệt phong long.
Sau khi xoa bóp và điều trị khỏi bệnh, bệnh nhân nên ăn uống, tập luyện điều độ để tránh TBMMN tái phát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét