Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Massage xoa bóp điều trị

Xoa bóp dân tộc là một phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh đối với sự chỉ đạo của lý luận y học dân tộc cổ truyền. Đặc điểm của nó là dùng bàn tay, ngón tay là chính để tác động lên huyệt da thịt gần khớp của người bệnh, nhằm đạt tới mục đích phòng bệnh và chữa bệnh. Ưu điểm là giản tiện, rẻ tiền có hiệu quả, có phạm vi chữa bệnh rộng, có giá trị phòng bệnh lớn.
Giản tiện rẻ tiền vì chỉ dùng bàn tay để phòng bệnh và chữa bệnh. Do đó, có thể dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào và không bị lệ thuộc vào các phương tiện
khác.
Có hiệu quả vì có tác dụng phòng bệnh và chữa bệnh nhất định. Có khả năng chữa một số chứng bệnh cấp tính và nhiều khi đạt kết quả nhanh chóng. Dùng xoa
bóp để chữa một số bệnh mãn tính đảm bảo an toàn, làm xong nhẹ người, triệu chứng bệnh giảm hẳn. Tự xoa bóp là để gìn giữ sức khỏe tốt và rất chủ động.
NHỮNG NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ XOA BÓP
Xoa bóp là một phương pháp phòng bệnh chữa bệnh như các phương pháp khác( dùng thuốc, châm cứu, mổ xẻ, thể dục,vv…) cho nên Có những chứng bệnh có thể dùng xoa bóp để chữa như: vẹo cổ, khớp hoạt động bị hạn chế, di chứng bại liệt
trẻ em, bệnh thấp, đau lưng, tiêu hóa kém, mệt mỏi, suy nhược thần kinh, cảm sốt…
Có những chứng bệnh có thể phối hợp xoa bóp với các phương pháp khác, xoa bóp ở vị trí thứ yếu như trong một
số bệnh cấp tính: sốt cao hay một số cơn bệnh cấp cứu của các bệnh nội tạng…ở đây xoa bóp có tác dụng giảm nhẹ triệu chứng.
NHỮNG ĐIỀU CHÚ Ý KHI CHỮA BỆNH BẰNG XOA BÓP
Cần làm cho người bệnh tin tưởng vào phương pháp để người bệnh phối hợp tôt với thầy thuốc và phát huy sự nỗ lực chủ động trong quá trình đấu tranh với
bệnh tật. Do đó , cần chú ý giải thích rõ nguyên nhân bệnh chỉ dẫn người bệnh những điều cần chú ý và phương pháp tập luyện ở nhà.
Cần có chuẩn đoán rõ ràng rồi mới  tiến hành xoa bóp. Không làm xoa bóp khi nguwofi bệnh quá đói, quá no. Trước khi làm thủ thuật nên để người bệnh ngồi
nghỉ thoải mái 5 – 10 phút. Chú ý thủ thuật nặng hay nhẹ phải hợp với người bệnh.
Ví dụ :  Đau do phong thấp làm mạnh, do hàn làm nhẹ, làm ở nơi đau phải chú ý sức chịu đựng của người bệnh không làm quá mạnh.
Sau một lần xoa bóp, hôm sau người bệnh thấy mệt mỏi là đã làm quá mạnh, lần sau cần làm nhẹ.
Khi xoa bóp thầy thuốc phải theo dỗi người bệnh thái độ phải hòa nhã, nghiêm túc. Đối với người bệnh mới nhất là nữ, cần nói rõ cách để họ yên tâm phối
hợp chặt chẽ với thầy thuốc và tránh những hiểu lầm đáng tiếc.
ĐỢT CHỮA BỆNH VÀ THỜI GIAN MỘT LẦN XOA BÓP
Đợt chữa bệnh:
Để tránh hiện tượng nghiện xoa bóp và phát huy tác dụng, mỗi đợt chữa bệnh thường từ 10 đến 15 lần là vừa.
Với chứng bệnh cấp tính mỗi ngày có thể làm 1 lần.
Với chứng bệnh mãn tính thường cách một ngày làm 1 lần hay  1 tuần làm 2 lần.
Thời gian một lần xoa bóp:
Nếu xoa bóp toàn thân thường từ  30 đến 40 phút. Nên xoa bóp bộ phận của cơ thể thường từ 10 đến 15 phút.
TÁC DỤNG CỦA XOA BÓP Y HỌC DÂN TỘC CỔ TRUYỀN VÀ TÁC DỤNG CỦA XOA BÓP THEO LÝ LUẬN Y HỌC HIỆN ĐẠI
Tác dụng của xoa bóp theo lý luận y học dân tộc.
Xoa bóp của y học dân tộc là một phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh của y học dân tộc cổ truyền. Vì vậy nó cũng chịu sự chỉ đạo của lý luận cơ bản âm dương,
ngũ hành, lạng lượng kinh lạc, vệ khí, định huyết của y học dân tộc cổ truyền.
Quan hệ  giữa xoa bóp với thuyết âm dương ngũ hành.
Nội dung cơ bản của hai thuyết âm dương ngũ hành
Âm dương: Vạn vật vận động và biến hóa không ngừng. Nguồn gốc của sự vận động biến hóa đó là gì?. Đó là âm và dương, tức là hai mặt đối lập trong một vật
thể  thống nhất, với âm là vật chất, dương là chức năng. Hai mặt này cái nọ dựa vào cái kia để tồn tại, phát triển và duy trì vật thể trong một trạng thái
cân bằng động. Trong mỗi mặt lại phân ra hai mặt âm dương. Trong quá trình vận động, nếu mặt nọ không ngừng phát triển sang một mặt đối lập thì đến lúc
cực thịnh sẽ chuyển hóa, sang mặt đối lập tức là âm cực sinh dương, dương cực sinh âm.
Vận dụng vào y học : người ta đã dùng âm dương để giải thích các vấn đề về y học, trong đó quan trọng nhất là : bệnh là sự mất cân bằng của âm dương và
sự mất cân bằng này có thể biểu hiện hoặc âm ( hay dương) thịnh, hoặc âm ( hay dương) suy. Trong điều trị, người ta phải lập lại cân bằng âm dương, nếu
thinh thì bớt đi ( thục thi tả), nếu suy thì thêm vào ( hư thì bỏ.
Ngũ hành: các sự vật trong vũ trụ và trong con người cũng tồn tại vận động trong một thể thống nhất thăng bằng của  vũ trụ, của con người?
Đó là quan hệ tương sinh tương khắc của ngũ hành trong trạng thái bình thường. Quan hệ tương sinh thuộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy,
thủy sinh mộc.
Quan hệ tương khắc : mộc khắc thổ, khổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc.
Quan hệ tương sinh tương khắc quy dịnh mỗi hành ( kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) đều có quan hệ mật thiết với 4 hành khác để duy trì thể thăng bằng động của
các sự vật.
Nếu bản thân mỗi hành hoặc thịnh hoặc suy sẽ gây ra mất cân bằng và biểu hiện bằng quan hệ tương thừa, tương vũ. Ví dụ : mộc thịnh sẽ thừa thắng khắc thổ
mạnh hơn gây mất cân bằng gọi là lượng thừa hoặc thủy quá yếu không những không khắc được hỏa, ngược lại bị hỏa đánh lại ( nước cạn đi) tức là hỏa đã vũ
lại thủy( tương vũ.
Vận dụng vào y học: người ta đã vận dụng ngũ hành để giải thích các vấn đề của y học, trong đó quan trọng nhất là: bệnh cs thể do bản thân mỗi tnagj ( phủ)
thinh hay suy, nhưng có thể do các tạng (phủ) sinh ra nó thịnh hoặc suy, các tạng ( phủ) khác có thịnh hoặc suy gây ra. Do đó, trong điều trị không những
phải bổ hoặc tả tạng bị bệnh mà còn phải bổ tả cả những tạng có quan hệ sinh khắc với nhau bị mất cân bằng. ví dụ:nếu tỳ bị hư thì chỉ cần bổ tỳ - Nếu
can mộc khắc tỳ thể thì phải ức mộc ( tả can) bồi thổ ( bổ tỳ).
Vận dụng vào xoa bóp: trong xoa bóp cũng phải chẩn đoán cho rõ âm dương và tạng phủ bị bệnh tức diễn biến thực hay hư của bệnh, ở một tạng hay nhiều tạng
phủ. Nếu bệnh thuộc thực thi phải tả, hư thì phải làm động tác mạnh nhanh, bổ thì phải làm động tác nhẹ, dịu dàng. Ví dụ: nếu bị cảm lạnh ( bệnh do hàn
tả tác động vào biểu  gây nên, có các chứng thực: sốt, gai rét, đau đầu,vv…) thì phải dùng các thủ thuật ấn, day, bóp, véo ở các kinh dương, động tác mạnh,
nhanh để làm ra mồ hôi. Nếu là mất ngủ do âm hư dương vượng thì phải dùng động tác xoa daym nhẹ, dịu dàng tác động các huyệt Dũng tuyền. Tam âm giao (
bổ âm) và động tác ấn, véo ngang, nhanh tác động vào các huyệt Thái xung, Bạch hội, Ấn đường ( tả dương) để điều hòa âm dương cũn là theo nguyên tác can
hư (can là con cua thận) thì bổ mẹ ( thận là mẹ của can).
Nếu là đau vùng thượng vị do can vị bất hòa ( đau cạnh sườn, dễ cáu gắt, đau vùng thượng vị, nôn…) thì dùng cách tả can và hòa vị.
Quan hệ giữa xoa bóp với thuyết tạng tượng, vệ khí, đinh huyết:
Đây là những học thuyết chính của y học dân tộc cổ truyền. Tạng tượng là 6 tạng phủ ( tâm, tâm bảo), can, tỳ, phế, thận, tiểu trường, đởm, vị, đại trường,
bàng quang, tam tiêu, các phủ khác ( não, tủy, xương, mạch, da con) ngũ quan, ngũ thể, tinh, khí,thần và các nhóm chức năng của chúng.
Kinh lạc là hệ thống mạng dọc, ngang chằng chịt khắp cơ thể, bên trong vào đến tạng phủ, bên ngoài ra đến cơ da. Đó là nơi tuần hoàn, của khí huyết để đi
nuôi dưỡng làm ấm cơ thể, điều hòa âm dương và làm cơ thể thành một khối thống nhất.
Cơ thể được bảo vệ  bởi vệ khí, được dinh khí và huyết nuôi dưỡng. Quá trình khí hóa trong cơ thể, hoạt động chức năng của cơ thể tiến hành được là nhờ
tác động của khí (Nguyên khí , tông khí và khí của các cơ quan tạng phủ).
Bệnh là qua huyệt xâm nhập vào cơ thể thì lần lượt vào lạc mạch trước, sau đó chuyển vào kinh và sau cùng chuyển vào tạng phủ, hoặc trực tiếp tác động vào
sâu ngay. Lúc đó, nó sẽ gây ra định vệ mất điều hòa hoặc kinh lạc bị bế tắc làm khi huyết ứ trệ hoặc làm rối loạn chức năng của tạng phủ. Những biểu hiện
bệnh lý đó được phản ánh ra huyệt và ở kinh lạc. Xoa bóp thong qua tác động vào huyệt, kinh lạc ( kinh cân) có thể đuổi ngoại tà, diều hòa được định vệ,
thong được kinh lạc và điều hòa được chức năng của tạng phủ.
Ví dụ : nếu hàn thấp vào nguwofi ( vệ khí không bảo vệ đươc ) cơ có thể bị co, lúc đó đinh huyết vận hành khó khăn. Dùng xoa bóp có thể điều hòa định vệ,
thúc đẩy khí huyết vận hành, làm ấm người và thì bệnh sẽ giảm nhẹ.
Trong bệnh tọa điền phong ( tương tự như đau dây thần kinh hông), kinh lạc không thông gây tê đau có thể dung xoa bóp để thong kinh lạc và giảm đau. Nếu
hàn vào đến giữa trường vị, dưới mô nguyên ( cơ hoành) thì huyết ứ , các lạc nhỏ co lại gây đau, xoa bóp có thể làm hoại huyết và hết đau. Hoặc bị chạm
thương ứ huyết, xoa bóp có thể làm hết huyết ứ, hết sưng hết đau.
Bệnh ở can truyền vào tỳ ( tỳ phong) có thể dung xoa bóp để làm hết đau cạnh sườn và ỉa chảy như dùng thuốc vậy
Ngoài các tác dụng trên, xoa bóp còn có tác dụng làm cho phấn chấn khi mệt mỏi, chữa chứng nuy ( liệt mềm, teo cơ) cũng có thể dùng để khai khiếu tinh thần
chông choang, ngất…)
TÁC DUNG CỦA XOA BÓP THEO LÝ LUẬN Y HỌC HIỆN ĐẠI
Xoa bóp là một loại kích thích vật lý, trực tiếp tác động vào da thịt, thần kinh, mạch máu và các cơ quan cảm thụ gây nên những thay đổi về thần kinh, thể
dịch, nội tiết qua đó nâng cao năng lực hoạt động của hệ thần kinh nâng cao quá trình dinh dưỡng và năng lực công tác của cơ thể. Có thể phân ra như sau
Tác dụng với da:  có 2 loại tác dụng : tác dụng tại chỗ và tác dụng toàn than.
Tác dụng tại chỗ:
Năng lực bảo vệ của da được nâng cao.
Năng lực hô hấp của da nâng cao do da sạch sẽ
Nhiệt độ da tăng nhất thời, do mao mạch giãn, da được nuôi dưỡng tốt hơn.
Tác dụng toàn than:
Nâng cao quá trình dinh dưỡng, nâng cao năng lực vông tác, nâng cao hoạt động thần kinh, do trực tiếp kích thích vào các cơ quan cảm thụ, gây nên những
phản xạ thân kinh có ích, do làm tiết các chất nọi tiết tế bào, (histamine, cholin, hợp chất H, acelyoholin) làm tăng hoạt động của thần kinh và giãn mạch.
Tác dụng với thần kinh: ảnh hưởng tới vỏ não, tùy trạng thái của người bệnh và thủ thuật xoa bóp, có quá trình ức chế tăng hoặc hưng phấn tăng khi kiểm
tra điện não đồ.
Anh hưởng towius hệ thần kinh thực vật biểu hiện ở thay đổi của hoạt động nội tạng và mạch máu, như: xoa bóp gáy, lưng trên, vai, có thể gây nên thay đổi
ở các cơ quan do thần kinh thực vật ở cổ, do trung khu thần kinh thực vật cao cấp ở chất xám của buông não số 3 chi phối: hoạc xoa bóp that lưng ( TL 1)
thăt lưng 2 ( TL 2) có thể gây xung huyết ở hố chậu nhorL xia bóp lưng dưới, thắt lưng, xương cùng để điều hòa dinh dưỡng và tuần hoàn các cơ quan trong
các hố chậu lớn nhỏ và chỉ dưới.
Tác động với cơ: làm tầng năng lực họa động ( sức bền) của cơ. Làm cơ mệt mỏi chóng hồi phục. Khi cơ làm việc căng thẳng gây phù nề, cứng, đau, xoa bóp
có thẻ almf hết các chứng đó.
 Ảnh hưởng tốt đến tình trạng thái teo cơ.
 Lmaf Glycogen tích lũy trong cơ tăng.
 Làm cơ được nuôi dưỡng tốt.
Tác dụng với gân khớp: xoa bóp có khả năng tăng tính co giãn tính hoạt động của gân , dây chằng. thúc đẩy việc tiết dịch trong ổ khớp và tuần hoàn quanh
khớp, do đó, sẽ tiêu trừ được hiện tượng hoại dịch ứ trệ và hiện tượng túi dịch ở khớp sương sưng to, cải thiện được sự lưu thong của máu và hạch huyết
ở chung  khớp xương và gân.
Tác dụng với tuần hoàn: đối với động lực máu: có tác dụng tốt với tim, giảm gánh nặng cho tim, do làm giãn mạch ( nên giảm trở lực trong mạch) và trực tiếp
thúc đẩy máu  tuần hoàn nhanh.
Đối với huyết áp: thực tế lâm sang đã chứng minh là tăng cường xoa bóp ở đầu và nửa người phía trên rất dễ làm cho huyết áp tăng lên, ngược lại xoa bóp
nửa người dưới có thể làm cho huyết áp hạ xuống. Hoặc xoa bóp đốt cổ 2, 3 sẽ làm hạ huyết áp, xoa bóp đốt lưng 6,7 có thể làm tăng huyết áp.
Đối với thành phần máu: trong khi xoa bóp, số lượng hồng cầu, tiểu cầu hơi tăng, xoa bóp xong lại trở về như cũ. Số lượng bạch cầu, huyết sắc tố cũng có
thể tăng. Sự thay đổi nhất thời này có thể do phản xạ thần kinh, có thể do tác dụng của thể dịch và có tác dụng tăng cường phòng vệ của cơ thể.
Tác dụng với hạch huyết: xoa bóp rất có tác dụng với hệ thống bạch huyết làm ba. Bạch huyết lưu thong trong bạch mạch là do sự co rút của cơ, rồi đi vào
tĩnh mạch. Xoa bóp có tác dụng trực tiếp đẩy bạch huyết theo một hương nhất đinh, làm cho tuần hoàn bạch huyết tăng nhanh gấp nhiều lần. Làm tiêu sưng
nhanh ( cần xoa bóp theo hướng tuần hoàn của bạch huyết). Đối với bệnh nhân nặng chân ( do đi quá nhiều ) hoặc do tuần hoàn của bạch huyết bị trỏe ngai,
có thể nhớ xoa bóp làm bạch huyết bị trỏe ngai, có thể nhờ xoa bóp làm bach huyết lưu thong thúc đẩy tuần hoàn của nước, do đó hết năng chân và hồi phục
bình thường.
Tác dụng với hô hấp: Khi được xoa bóp ở ngực, người bệnh thở sâu lên, có thể do trực tiếp kích thích bóp nhẹ các đốt cổ 4,5 sẽ gây co phổi, xoa bóp các
đốt lưng 6, 7, 8 sẽ làm giãn phổi, do đó có tác giả dùng xoa bóp để chữa các bệnh  phế khí thũng, hen phế quản, xơ cứng phổi…để nâng cao chức năng thở
và ngăn chặn sự suy sụp của chức năng thở.
Tác dụng với tiêu hóa: có tác dụng tăng cường  nhu động của dạ dày, ruột và cải thiện chức năng tiêu hóa. Khi chức năng tiết dịch tiêu hóa ( dạ dày, ruột,gan)
kém cùng kích thích mạnh để tăng tiết dịch. Khi chức năng tiết dịch tiêu hóa vượng dùng kích thích vùa hoạc nhẹ  để giảm tiết dịch.
Tác dụng vớ quá trình trao đổi chất: Xoa  bóp làm tăng lượng nước tiểu thải ra  nhưng không thây đổi pH  trong máy. Có tác giả nêu lên 2, 3 ngày sau khi
xoa bóp chất nito trong nươc tiểu tăng lên và kéo dài vài ngày, có thể do tác dụng phân giải protit của xoa bóp gây nên.
Xoa bóp toàn than có thể tăng nhu cầu về dưỡng khí 10 – 15% đồng thời cũng lượng than khí thải ra tăng lên tương tự.
NHỮNG PHÉP ĐIỀU TRỊ ĐÔNG Y TRONG XOA BÓP
Bổ: bổ là bồi bổ giúp cho âm dương khí huyết bị hư trở về trạng thái bình thường. Trong phép bổ lấy xoa , day, ấn làm chủ. Thủ thuật cần nhẹ, dịu dàng,
chậm, thuận đường kinh, không nên kích thích mạnh.
Tả: là  làm mất phần quá thịnh của cư thể dùng trong chứng thực do tà khí gây nên. Như  nhiệt kết gây ra bụng trướng đầy, đại tiện không thong, thực tích,vv…Trong
phép tả, thủ thuật cần làm mạnh , nhanh và ngược đường kinh
Làm ấm: là đuổi hàn tà, trợ dương khí làm cho cơ thể ấm lại, thường dùng trong chứng hàn ở trong như:lạnh bụng ỉa chảy, dương hư, v.v…Trong phép làm ấm
chủ yếu lấy ấn xao, day làm chỉnh, thủ thuật cần hóa hoãn đế sinh ra nhiệt ở cả cơ nhục và tạng phủ để đạt tới mục đích ôn nhiệt khử hàn. Ví dụ : cơ thể
do lạnh mà gây ra đau bụng thì dùng hủ thuật ấn có thể khử hàn chí thống, thận dương hư gây ỉa lỏng thì ấn day. Quan nguyên, Trung quản, Mệnh  môn,  là
chính làm cho than dương vượng và ỉa tự cầm.
Tiêu ( thông ): tiêu là làm tiêu tan hoạc tiêu trừ ứ đọng làm thông kinh lạc bị bế tắc. Dùng trong các trường hợp như khí trệ, huyết ứ, phòng hàn thấp,
làm tắc kinh lạc, đờm kết. Trong phép tiêu (thông) thủ thuật cần mạnh và thường dùng day, bóp, lăn.
Làm ra mồ hôi: là mở lỗ chân long , làm mồ hôi thoát ra,  qua đó đuổi tà khí đang ở biểu ra khởi cơ thể cũng với mồ hôi.
Nếu ngoại cảm phong hàn thì dùng bấm, day từ nhje đến nặng  dâng đêt tăng cường kích thích làm cho toàn than ra mồ hôi đạt tới mục đích khử phong tán hàn.
Nếu phong nhiệt ngoại cảm thì dùng phương pháp nhẹ và dẻo, nhanh để khu phong thanh nhiệt. Trong phép làm ra mồ hôi để chữa bệnh ở biểu ( da ở lưng trên
thường cứng hơn chỗ khác), thủ thuật  cần làm từ nhẹ đến mạnh. Lúc bệnh nhân ra mồ hôi trong người sẽ dễ chịu, sốt sẽ hạ, như vậy ngoại tà đã bị đuổi ra
khỏi cơ thể và bệnh sẽ khỏi. Các thủ thuật ấn, xoa, day, lăn bóp ở tay, chân, cổ, đầu có tác dụng đuổi phong tà. Các huyệt thường dùng là Hợp cấc, Ủy trung,
Đại chùy, Phong môn, Phong trì…
Điều hòa: là phép  dùng để đuổi tà khí mà không hại chính khí, dùng trong trường hợp bệnh tả ở bán biểu bán hoặc quan hệ giữa các tạng phủ không điều hòa
như:  cao vị bất hòa, can mộc khắc tỳ thổ vv…Thủ thuật lấy day, ấn, xoa làm chính, làm vừa sức và dịu dàng. Huyệt thường dùng là Dường lăng tuyền, Chi
câu hoặc Chương môn, Kỳ môn, Thái xung, Trung quản, Túc tam lý, Vị du vv…
Làm mát: là hạ nhiệt giáng hỏa để giữ tân dịch, chống khát và trạng thái bồn chồn. Dùng trong các trường hợp nhiệt ở trong ( lý). Thủ thuật cần mạnh, nhanh,
ngược đường kinh. Những huyệt thường dùng là Hợp cốc, Khúc trì, Thủ tam lý, Giải khê, Thượng dương, Nhân trung, Thập tuyên.
Xổ ( hạ ): là phép dùng để thông đại tiện, làm cho người bệnh có thể đi ngoài được trong những bệnh thuộc thực tà hữu hình ở trường vị. Chủ yếu xoa bóp
vùng bụng theo chiều kim đồng hồ, dùng tác động trên huyệt và tác động cơ giới của xoa bóp để thông hạ ( tăng nhu động ruột và đẩy phan ra ngoài). 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét