Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2015

Xoa bóp giúp cải thiện Tăng huyết áp

     Theo YHCT: NGUYÊN LÍ GÂY BỆNH VÀ CHỮA TRỊ-XOA BÓP- BẤM HUYỆT 5 VÙNG CƠ BẢN CỦA CƠ THỂ TRONG PHÒNG & TRỊ BỆNH CỦA ĐÔNG Y
1. XOA BÓP VÙNG ĐẦU MẶT CỔ: xoa xát vùng đầu mặt cổ.
a. Xoa bóp (Xb) vùng đầu: ấn day tóc-> đầu (chải, bóp, gõ,vỗ, rung)
b. Xb vùng mặt:xoa-> xát->ấn day huyệt Thái dương->miết trán (phân, hợp) ->
mắt (xoa, bấm, nhào,miết, vuốt, day huyệt) -> má (xoa, day, bóp nắn, nhào,
day, rung)
c. Xb vùng cổ gáy: ấn day Phong trì-> bóp nắn-> rung->vận động khớp cổ (quay,
nghiên, ngữa, tổng hợp).
2. XOA BÓP VÙNG LƯNG: xoa xát vùng lưng
Đuỗi tay trên cơ ->miết -> bóp nắn->ấn day huyệt lưng->nhào->đấm->lăn ->
cuộn da-> vuốt ->phân hợp lưng-> rung-> vận động khớp cột sống -> xát cơ->
phát mệnh môn..
3. XOA BÓP CHI TRÊN: xoa xát vùng chi trên
a. Xb ngón tay: vê -> bóp nắn khớp ngón -> vờn -> vận động khớp ngón tay
(quay, khép,gấp, duỗi, kéo dãn) .
b. Xb bàn tay: xoa lòng, xoa lưng bàn tay-> miết kẽ ngón -> vận động khớp cổ
tay (quay,gập, duỗi,nghiên) -> day ấn huyệt bàn cổ tay.
c. Xb cẳng tay: bóp nắn -> nhào -> ấn day huyệt -> vận động khớp khũy (quay,
gấp, duỗi, sấp, ngữa)
d. Xb cánh tay: bóp nắn -> nhào -> ấn day huyệt -> vận động khớp vai (quay
vòng nhỏ, quay vòng lớn, ấn dãn vai, quay vòng rộng ra sau)
Rung toàn chi trên.
4. XOA BÓP CHI DƯỚI: xoa xát vùng chi dưới.
a. Xb ngón chân: vê -> bóp nắn khớp ngón -> vờn -> vận động khớp ngón chân
(quay, khép,gấp, duỗi, kéo dãn)
b. Xb bàn chân: chà sát -> miết kẽ ngón-> vận động khớp cổ chân (quay,lắc, kéo
dãn) -> day ấn huyệt bàn cổ chân-> bóp gót chân.
c. Xb cẳng chân: vuốt -> bóp-> nhào->  tách -> lắc cơ -> đấm khoeo -> miết&
lắc xương bánh chè -> day ấn huyệt ->vận động khớp gối.
d. Xb đùi: bóp nắn ->nhào ->day-> lăn ->vuốt -> rung -> day ấn huyệt đùi -> vận
động khớp háng.
5. XOA BÓP NGỰC, BỤNG: xoa xát vùng ngực, bụng.a. Xb ngực: miết kẽ sườn-> day ấn huyệt ngực->  bóp nắn -> nhào -> day->
rung.
b. Xb bụng: xoa chiều kim đồng hồ vùng bụng-> bóp nắn -> nhào -> day cơ->
day ấn-> ấn trượt ->  day ấn huyệt bụng-> rung -> lắc (trực, gián tiếp) -> phân hợp -> xoa kết thúc.

NGUYÊN LÍ GÂY BỆNH VÀ CHỮA TRỊ

Từ xưa đến nay, bệnh tật luôn là hiểm họa đối với con người. Con người đã không mệt mỏi đi sâu khám phá các bí ẩn và đạt được bao nhiêu thành tựu trong y học. Khoa học ngày càng phát triển, chúng ta đã biết được rằng: ngoài bệnh tật do rối loạn hoặc suy yếu các chức năng thực thể, rất nhiều bệnh tật do gián tiếp hay trực tiếp nhiều loại vi trùng, vi khuẩn, vi rút (viết tắt VS) sinh ra.
Kinh nghiệm dân gian và khoa học hiện đại đã tích lũy được những tri thức to lớn trong việc phòng bệnh và chữa bệnh, mà hướng chủ yếu là tập trung vào củng cố sức khoẻ thể lực, tấn công vào VS là các tác nhân gây bệnh. Trên cơ sở Logic truyền thống theo hướng đó người ta đã phân loại bệnh tật theo nhiều tiêu thức khác nhau. Nhưng tựu lại đều thuộc vào hai nhóm cơ bản : - Những bệnh tật chữa được – Những bệnh tật đang bó tay. Có thể thấy rằng khuynh hướng của nền y học cho đến nay vẫn là sự ưa dùng “bạo lực” đối với VS.
Người ta đã tìm ra hết loại Kháng Sinh ( KS ) này đến loại KS khác nhằm “phong tỏa” , “tiêu diệt” VS. Thật ra VS tuy không biết đến câu “ Đất lành chim đậu”, nhưng nó biết cách tìm ra nhưng “mảnh đất” phù hợp với nó nhất trong cơ thể con người. Và khi chúng sinh sôi nảy nở trong “mảnh đất” đó của cơ thể con người sẽ gây cho con người những hệ quả không mong muốn, đến mức độ nào đó sẽ phá hoại sự “cân bằng khí huyết - âm dương – thể trạng” hoặc “ăn dần” cơ thể con người….
Câu hỏi muôn đời vẫn là: Con người có thể chiến thắng được bệnh tật không? Chiến thắng bằng cách nào ?
Câu trả lời là Có - Điều đó đã từng là hiện thực, vừa là ý chí không gì ngăn cản nổi của con người. Vấn đề là con người cần có những cách tiếp cận mới, một phương thức hiệu quả hơn. Ngày nay khi HIV/AIDS hoành hành mà các phương thức hay một cách tiếp cận truyền thống con người đã từng sử dụng chưa thể trị được nó, thì cũng là lúc con người đứng trước một thách thức mới để xem xét lại tất cả những điều trên. Trên phương diện KH, cách tiếp cận mới đang đứng trước một cơ hội.
Tôi có thể tóm lược những mệnh đề căn bản như sau:
• Cơ thể là một hệ thống tổ chức, khi sinh ra nó đã vốn có một sự hài hòa, cân bằng tự thân. Trong quá trình phát triển, cơ thể cần phải thích ứng với môi trường ( MT ) nên nó phải tìm cách cân bằng và hài hòa với MT. Mọi sự phức tạp, dễ tổn thương chủ yếu là do sự mất cân bằng đó ( tự thân và với MT )
• Khi sinh ra và khi lớn lên cơ thể có thể có những khiếm khuyết làm nó dễ bị tổn thương  Phải tìm cách điều chỉnh những khiếm khuyết đó
• Khi cơ thể bị bệnh, có nghĩa là : - Một là : Cơ thể đã suy yếu, và ở khâu suy yếu nhất những tác nhân xấu thâm nhập vào gây bệnh… Đến lượt nó sẽ phá hủy sự cân bằng của toàn bộ cơ thể, khi đó nhiều tác nhân xấu loại khác cũng thâm nhập vào cơ thể theo các đường các ngả khác nhau. Bởi vậy phải phát hiện và ngăn chặn kịp thời và chống lây lan – Hai là : Cơ thể là MT tốt đối với VS  Cần tìm hiểu VS thích hợp với MT như thế nào để
1. Thay đổi tình trạng của cơ thể không còn phù hợp với VS nữa.
2. Tìm cách dẫn dụ VS vào MT ngoại lai
• Cơ thể luôn có 2 cơ chế đề kháng chủ yếu : - Bạch cầu ( ví như đội quân chính qui ), chức năng là “tiêu diệt” VS – Hệ thống miễn dịch ( ví như chiến tranh nhân dân ), chức năng là miễn nhiễm ( vô hiệu hóa VS ). 2 cơ chế đó tương ứng với 2 đặc tính “Kháng thể “ và “Kháng nguyên”. Nhưng cả 2 cơ chế trên đã mất khả năng nhận dạng kẻ địch là HIV ( một loại của VS ). Vấn đề trước hết và tối quan trọng là phải tạo cho cơ thể một khả năng nhận dạng với bất cứ một sự bất thường nào xâm nhập vào cơ thể. Từ bé con người đã cần tiêm vào cơ thể những VS dại, uốn ván, Viêm gan B… để tạo khả năng nhận dạng của cơ thể. Nhưng rất nhiều VS mới ra đời. Do vậy điều kiện tiên quyết để cơ thể nhận dạng được và đề kháng tích cực với bất kì sự xâm nhập lạ nào là cơ thể đó phải có được trạng thái logic, cân bằng nội tại. Do vậy phải thường xuyên ‘grade up’ ( set up / make up / back up / get up / clean up ) lại cơ thể đó để đảm bảo có và duy trì được khả năng đó ở mức tối đa của nó.
Sau đây tôi ví dụ về Bệnh Ung Thư ( một c ăn bệnh có cả trong cơ thể sinh học lẫn cả trong cơ thể xã hội ):
1. Nguyên nhân : các yếu tố ngoại lai, quái dị, khác lạ với truyền thống cốt lõi thâm nhập vào cơ thể ( thông qua ăn uống, sinh hoạt, lối sống…), không hợp với tính cách, qui luật của cơ thể, làm hỏng quá trình tuần hoàn đồng hóa ( Input ), dị hóa ( Output )
2. Từ đó làm hỏng một số lượng các Tế bào ở một Bộ phận cơ thể nào đó ( Có thể là ở Khâu xung yếu / hoặc đề kháng kém / hoặc ở chỗ thường xuyên bị nhiễm …) theo nghĩa không làm chúng chết mà chúng bị hỏng Gen…dẫn đến hỏng chức năng vốn có…
3. Input / hay Output trở nên bất thường, do đó ‘tham ăn và tha hóa’ vô hạn độ… đến mức nhanh nhất là ăn luôn các Tế bào khác trong cơ thể cho dễ , cho nhanh… nên nó phát triển không ngừng, sâu gốc bền rễ trong cơ thể, còn chính cơ thể bị ốm o, suy kiệt nhanh chóng. Chúng lan toả rất nhanh trong cơ thể, gây di căn, làm hỏng hệ miễn dịch
4. Bền vững và cực kì khoẻ nên nếu tính giết nó các bộ phận khác của cơ thể chết trước. Nên các tế bào xung quanh phải thỏa hiệp, yếm thế với nó. Nó chết sau khi cơ thể đã chết
5. Điều trị: lấy thuộc tính của chính nó để diệt nó. Nhưng thách thức ghê gớm nhất là vấn đề tư tưởng, thói quen sống, cách sinh hoạt - vì chính cái nguyên nhân gây ra nó, cách nó lớn lên trong cơ thể.

Các vị có công việc luôn phải tiếp xúc với màn hình vi tính cần biết diệu phương này! HUYỆT MINH NHÃN, HUYỆT PHƯỢNG NHÃN, HUYỆT ĐẠI KHÔNG CỐT
.
Huyệt Minh Nhãn – vừa quan trọng vừa hữu dụng.
Phòng chứng mệt mỏi - đục thủy tinh thể - ngủ ngon 

Khi đã có tuổi, chúng ta dễ bị lão thị, hãy thử cách ấn huyệt Minh Nhãn, bảo đảm quý vị sẽ được TAI THÍNH, MẮT SÁNG.
Nếu quý vị thường cảm thấy mỏi mắt nhưng lại không đúng vào giờ ngủ, lúc đó  hãy vận dụng phương pháp xoa bóp huyệt đạo để thư giãn mắt.
Trên ngón cái của chúng ta có 3 huyệt tiếp giáp nhau (như hình vẽ) đó là huyệt Minh Nhãn (giáp ngón trỏ), huyêt Phượng Nhãn (phía ngoài ngón cái) và huyệt đại không cốt (ở giữa).
Huyệt Minh Nhãn và Phượng Nhãn có thể cải thiện chứng mỏi mắt và viêm kết mạc cấp tính, đại không cốt huyệt thì cải thiện tất cả các triệu chứng bệnh liên quan đến mắt.
Các vị thường gặp chứng mỏi mắt mỗi ngày nên kích thích 3 huyệt này hai lần.  Phương pháp: kẹp ngón cái vào giữa ngón cái và ngón trỏ của tay còn lại, dùng đầu móng của ngón cái lần lượt kích thích 3 huyệt đạo này, ấn với mức độ có cảm giác hơi đau là được.
Đây là phương pháp ấn huyệt đơn giản khi đang rảnh rỗi giữa các ca làm việc hoặc trong lúc đợi xe đều có thể thao tác.
Các vị thường bị mỏi mắt nhưng lại khó ngủ sử dụng phương pháp này sẽ dễ dàng tìm lại giấc ngủ.
Phương pháp trên cũng có thể ức chế chứng đục thủy tinh thể ở người cao tuổi.

Xoa bóp, bấm huyệt phòng và trị bệnh

xoa bóp là một phương pháp phòng và chữa bệnh. Khi xoa bóp, bàn tay, ngón tay tác động lên da, thịt, gân, khớp của người bệnh, giúp chữa một số bệnh cấp tính cũng như mãn tính; phòng và chữa các chứng đau, liệt và rối loạn chức năng cơ thể.
Với các động tác thực hành xoa bóp tại nhà, cần chú ý đến hai vấn đề của điểm đau.
Nếu ấn vào chỗ đau, người bệnh cảm thấy tức, khó chịu, muốn gạt tay ra khỏi chỗ đau ngay (cự án), thì đây là bệnh vừa mới mắc phải. Khi xoa bóp, cần thực hiện các động tác nhanh, mạnh và trong thời gian ngắn, sau đó dùng một ít dầu nóng hoặc dầu cù là xoa vào chỗ đau. Thời gian xoa 10 phút.
Khi ấn vào thấy đau nhưng càng ấn càng dễ chịu (thiện án), thì bệnh này đã lâu. Người xoa phải làm nhẹ nhàng, tạo cảm giác dễ chịu. Thời gian xoa từ 15-20 phút.
Sau liệu trình từ ba-năm ngày mà chỗ đau không cải thiện, cần đưa bệnh nhân đến bác sĩ để chẩn đoán, điều trị cho phù hợp.
• Các thủ thuật tác động lên da: có tác dụng khu phong, tán hàn, thông khí huyết, giảm sưng, giảm đau…
Xát: dùng tay lướt trên da theo hướng thẳng, đi lên, đi xuống hoặc sang trái, sang phải.
Xoa: dùng tay di chuyển theo hình vòng tròn trên da chỗ đau.
Miết: dùng ngón tay cái ấn chặt vào da rồi di động ngón tay theo hướng lên hoặc xuống, sang trái hoặc phải; đồng thời dùng sức đè xuống làm căng da của người bệnh.
Véo: dùng ngón tay cái, ngón trỏ, ngón giữa kẹp da, kéo da lên và đẩy tới liên tiếp làm cho da luôn bị cuộn giữa các ngón tay. Có thể véo từng cái một hoặc vừa véo vừa di động đẩy tới.
Phát: dùng bàn tay hơi khum, giữa lòng bàn tay hơi lõm, vỗ lên da nơi bị bệnh từ nhẹ đến nặng. Da sẽ bị đỏ lên do áp lực không khí trong bàn tay thay đổi.
• Các thủ thuật tác động lên cơ: thông khí huyết kinh lạc, giảm đau, mềm cơ…
Day: dùng cườm tay ấn xuống da, huyệt của người bệnh, rồi di động theo đường tròn. Day chậm hay nhanh, diện rộng hay hẹp, sức mạnh hay yếu là tùy tình hình bệnh và vị trí tác động.
Đấm: nắm hờ các ngón tay và dùng mô ngón út đấm lên nơi bị bệnh; mạnh hay yếu tùy thuộc lớp da dày hay mỏng, song phải có tác dụng thấm sâu vào cơ.
Chặt: mở bàn tay thẳng ra, dùng mô ngón út chặt liên tiếp vào nơi bị đau. Nếu làm ở đầu thì hai bàn tay chập lại, các ngón tay xòe ra, dùng ngón út vỗ vào đầu của người bệnh, ngón này sẽ đập vào các ngón tay kia phát ra tiếng kêu.
Lăn: dùng các khớp bàn, ngón tay; khớp ngón tay của các ngón út, ngón đeo nhẫn, ngón giữa. Với một sức ép nhất định, vận động khớp cổ tay để lăn các khớp ngón tay và bàn tay lần lượt trên bộ phận cần xoa bóp, vừa lăn vừa ấn trên cơ người bệnh.
Bóp: dùng ngón tay cái và các ngón tay kia ôm lấy khối cơ ở nơi bị đau, rồi bóp bằng hai ngón tay hoặc ba ngón tay, bốn ngón tay, năm ngón tay. Vừa bóp vừa kéo thịt lên, không để cơ hoặc gân trượt dưới tay vì sẽ gây đau.
Vờn: hai bàn tay hơi cong, bao lấy một khối cơ, rồi chuyển động hai tay ngược chiều nhau, kéo cả cơ người bệnh chuyển động theo, khối cơ lay động giữa hai bàn tay. Dùng sức vừa phải, vờn từ trên xuống hoặc từ dưới lên giống như đẩy, lắc. Thường dùng ở chân, tay, vai, lưng, sườn.
• Thủ thuật tác động lên huyệt: thông kinh lạc, giảm đau ở huyệt và tạng phủ, hoặc khớp có quan hệ với huyệt.
Ấn, day huyệt: dùng đầu ngón tay cái đè vào huyệt, rồi giữ nguyên ngón cái chừng 20-30 giây. Hoặc có thể di động ngón tay theo hình tròn.
Điểm huyệt: dùng ngón tay giữa để thẳng, ngón tay trỏ hơi cong lên và để trên lưng của ngón giữa, ngón cái để phía bên dưới trong ngón giữa để đỡ cho ngón giữa. Tác động thẳng góc và từ từ vào huyệt. Nếu huyệt sâu như hoàn khiêu hoặc nơi có cơ dày, dùng ngón tay không đủ sức thì dùng khuỷu tay tác động thẳng góc vào huyệt. Cách điểm huyệt chia làm ba thì:
Thì một: dùng ngón giữa, tác động từ nhẹ đến nặng, dần dần điểm sâu xuống huyệt rồi không động nữa.
Thì hai: trên huyệt đó, rung nhẹ ngón tay, mục đích là tăng cường kích thích lên huyệt (khoảng một-hai phút).
Thì ba: dần dần nhấc ngón tay lên, nhưng không rời da, sau đó làm lại các động tác trên khoảng năm lần.
Bấm huyệt: dùng ngón tay cái nhấn mạnh vào huyệt, động tác mạnh, nhanh, đột ngột. Thường dùng ở huyệt nhân trung, thập tuyên. Tác dụng khai khiếu, làm tỉnh người.
Xoa bóp giúp cải thiện Tăng huyết áp
Tăng huyết áp được Y Học Cổ Truyền  đề cập đến trong phạm trù chứng Huyễn vựng , Đầu  thống  ( triệu chứng hoa mắt , chóng mặt chao đão như ngồi trên thuyền , nhức đầu ).
Nguyên nhân chứng Huyễn vựng là một bệnh nội thương do nhiều nguyên nhân gây nên:
Tình chí thất điều  ( lo buồn , suy nghĩ , tức giận, tâm lý căng thẳng thái quá )
Tiên thiên bất túc  ( thể chất bẫm sinh suy yếu , lớn tuổi thiên quý suy ).
v  Hậu thiên suy tổn  ( do lao lực , dinh dưỡng kém , Tỳ vị khí huyết suy hư  )
v  Ẩm thực thất điều ( ăn uống qúa nhiều chất béo ngọt )
à         Các thể trên lâm sàng:
v  Chứng thực: thể Can hỏa vượng (Tình chí tức giận, nóng này thái quá) hoặc thể đờm thấp (ăn quá nhiều chất béo ngọt, người mập) gây ra hoa mắt chóng mặt nóng bừng mặt, chao đảo, đau đầu (cự án: chống cự lại khi ấn))
v  Chứng hư: do bẩm sinh , tuổi gìà, bệnh lâu ngày gồm thể Can Thận âm hư (người nóng bứt rứt: nội nhiệt) . và/hoặc thể Can Thận dương hư (lòng bàn chân lạnh: ngoại hàn) gây ra chóng mặt hoa mắt nhức đầu(thiện án: dễ chịu khi ấn).
à         Điều trị các thể lâm sàng:
v  Dùng thuốc
v  Hỗ trợ điều trị bằng các  phương pháp không dùng thuốc
§  Dưỡng sinhLuyện thư giãn: ổn định thần kinh , quân bình giữa quá trình hưng phấn và ức chế và Luyện thở thở 4 thời , thở khí công. Tự xoa lòng bàn chân khoảng 50-100 lần/ngày.
§  Xoa bópChủ yếu xoa bóp vùng đầu mặt, rãnh hạ áp
§  Ăn uống: Tránh dùng chất kích thích :  Cà phê , thuốc lá , rượu và tránh thức khuya , ăn ngủ điều độ.
§  Tinh thần thái độ trong cuộc sống : Tập luyện tinh thần ổn định . và tránh lo âu , tức giận , buồn bực thái quá
2.     Xoa bóp- Bấm huyệt cải thiện THA:
à         Tác dụng Xoa bóp bấm huyệt:
v  Theo YHCT: Trong xoa bóp cũng phải chẩn đoán rõ âm dương, tạng phủ bị bệnh; xác định bệnh hư hay thực, ở một tạng hay nhiều tạng phủ. Xoa bóp thông qua tác động vào huyệt, kinh lạc, có thể đuổi ngoại tà, điều hoà được dinh vệ, thông được kinh lạc, khí huyết và điều hoà được chức năng của tạng phủ
§  Nếu bệnh thuộc hư thì phải bổ, bệnh thực thì phải tả.
§  Tả thì động tác mạnh, nhanh, ngược đường kinh; Bổ thì động tác nhẹ nhàng, khoan thai, thuận đường kinh.
v  Theo YHHĐ: Xoa bóp được thực hiện khá rộng rãi :
+ Tăng tuần hoàn dinh dưỡng tại chỗ:Tay, chân, đầu, mặt, cổ, lưng .
+ Làm giảm sự căng thẳng thần kinh, giảm mệt mỏi sau lao động, tập luyện
+ Giảm đau nhức cơ xương khớp, đau các rễ thần kinh, dây thần kinh
+ Tăng cường phục hồi các cơ liệt, cơ teo sau khi tổn thương
+ Vận động  các cơ trước khi thi đấu thể thao và làm tan tụ máu tại cơ và tổ chức liên kết khi chấn thương .
+ Làm mềm sẹo, dây chằng và các gân cơ  dây chằng khi co rút,  co cứng tăng trương lực
+ Cải thiện huyết áp.
+ Xoa bóp làm cải thiện các nếp nhăn, làm da mặt trở nên mịn màng .
à         Những người không nên xoa bóp bấm huyệt:
v  Đang mắc bệnh về da và các tổ chức dưới da
v   Đang sốt cao cấp tính.  Suy kiệt cơ thể ,
v   Suy tim độ III, thiểu năng gan thận, bệnh ưa chảy máu, giãn động tĩnh mạch
v   Người đang bị khối u, ung thư, lao
v   Đau do các bệnh cấp cứu  ngoại khoa, đau không rõ nguyên nhân
à         Tác dụng của xoa bóp bấm huyệt trong bệnh tăng huyết áp:
§  Đối với da:  tổ chức dưới da có một mang lưới tuần hoàn phong phú: Tuần hoàn động mạch, tuần hoàn tĩnh mạch và tuần hoàn bạch mạch . Xoa bóp có tác dụng làm giãn mạng lưới mao mạch trên
§  Làm tăng lưu thông máu qua hệ thống mao mạch, tĩnh mạch, bạch mạch ở các tổ chức.
§  Sự giãn nở mạch máu và lưu thông máu tốt giúp cho tổ chức cơ thể được cung cấp dinh dưỡng, ôxy, thải trừ chất cặn bã và  khí cacbonnic được tốt hơn.Vì vậy làm cho tổ chức được xoa bóp hoạt động và hồi phục được nhanh hơn.
§  Giúp điều chỉnh phân phối tuần hoàn cơ thể, xoa bóp toàn thân lượng máu ngoại vi được tăng cường. Lượng máu tại các cơ quan tạng phủ sâu được rút bớt, hoạt động của tim được điều chỉnh. Huyết áp thường hạ xuống 10mmHg-20mmHg sau xoa bóp.
§  Đặc biệt xoa bóp làm tăng tuần hoàn bạch mạch 5-6 lần nên giảm phù nề tổ chức và giảm đau rất tốt trong các trường hợp ứ trệ tuần hoàn bạch mạch do chèn ép phù nề. Tuần hoàn bạch mạch lưu thông tốt giúp khả năng thực bào, miễn dịch được gia tăng nên khả năng chống viêm nhiễm được tốt hơn.
§  Sau xoa bóp người được xoa bóp thấy thoải mái, bớt mệt mỏi và căng thẳng khả năng lao động được phục hồi nhanh hơn .
à         Những bài tập xoa bóp bấm huyệt dùng cho người bị THA:
v  Đo huyết áp trước khi xoa bóp :
v  Tư thế:
§  Bệnh nhân nằm ngữa: thư giãn qua 3 bước
-          B1: ức chế ngũ quan
-          B2: ra lệnh các cơ mềm ra từng nhóm cơ (đầu-> chân)
-          B3: tập trung theo dõi hơi thở suốt quá trình xoa bóp
§  Thầy thuốc ngồi ghế phía sau đầu bệnh nhân: thực hiện các thủ thuật sau:
-          Vùng trán: xoa-> xát-> ->miết trán (phân, hợp) -> mắt (xoa, bấm, nhào,miết, vuốt) ấn day huyệt vùng trán: Thái dương, ấn đường, ngư yêu, Tinh minh...
Tăng huyết áp là bệnh lý thường gặp, dễ dàng phát hiện nhưng lại thường bị bỏ sót, gây hậu quả nặng nề cho người bệnh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
BS.CK2 Huỳnh Tấn Vũ - Đại học Y dược TP.HCM, cho biết khi bị bệnh tăng huyết áp, ngoài thuốc ra thì việc lựa chọn và duy trì một chế độ ăn thích hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Người bệnh cần tuân thủ những nguyên tắc chung như: Ăn nhạt, hạn chế mỡ động vật, kiêng các chất kích thích, tăng cường chất xơ… 
Bên cạnh đó, người bệnh nên luyện tập thể dục, giảm cân nếu bị dư cân. Điều này sẽ giúp cho việc kiểm soát bệnh được tốt hơn. Ngoài ra, phương pháp xoa bóp - bấm huyệt của Đông y có tác dụng giúp cải thiện bệnh tăng huyết áp rất hiệu quả.
Tuy nhiên, việc xoa bóp - bấm huyệt cũng cần phải đúng kỹ thuật để đạt được kết quả tốt. Xoa bóp - bấm huyệt được tiến hành qua các bước sau:
Đầu tiên, người bệnh cần đo huyết áp trước khi xoa bóp. Người bệnh nằm ngửa và thư giãn qua 3 bước:
Bước 1: Ức chế ngũ quan (tiết chế 5 giác quan của cơ thể: thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác, vị giác)
Bước 2: Ra lệnh các cơ mềm ra từng nhóm cơ (từ đầu đến chân)
Bước 3: Tập trung theo dõi hơi thở suốt quá trình xoa bóp.
Người thực hiện xoa bóp ngồi ghế, phía sau đầu người được xoa bóp và thực hiện các thủ thuật sau:
Ở vùng trán thực hiện các động tác:
-Động tác xoa: Dùng 2 ngón tay trỏ và giữa di chuyển thành vòng tròn trên vùng trán.
-Động tác xát: Dùng 2 ngón tay trỏ và giữa di chuyển theo hướng lên xuống hoặc qua lại.
-Động tác miết trán (phân, hợp): Dùng ngón tay cái của 2 bàn tay di chuyển theo 2 hướng cùng chiều và ngược chiều nhau.
Mỗi động tác thực hiện từ 5 - 10 lần.
Vùng mắt:
-Động tác xoa mắt: Dùng 2 ngón tay trỏ và giữa di chuyển vòng quanh mắt.
-Động tác bấm huyệt vùng mắt: Dùng 2 ngón tay cái và trỏ bóp nhẹ cung long mày từ trong ra ngoài.
-Động tác vuốt mắt: Dùng 2 ngón tay trỏ và giữa vuốt 2 mi mắt từ trong ra ngoài.
Mỗi động tác thực hiện từ 5 - 10 lần.
Vùng đầu:
-Động tác ấn day tóc: Dùng đầu ngón tay 2 bàn tay xoa chân tóc từ dưới lên trên theo hình tròn.
-Động tác chải đầu: Dùng lần lượt từng bàn tay xòe ra như hình cây lược vừa chỉa vừa kéo nhẹ chân tóc.
-Động tác bóp đầu: Dùng hai bàn tay bóp vùng đầu theo chiều ngược nhau.
Vùng cổ gáy: Động tác bóp nắn vùng cổ gáy: Dùng ngón cái một bên, các ngón bàn tay một bên bóp nhẹ nhiều lần vùng cổ gáy.
-Xoa vuốt rãnh hạ áp ở phía sau tai cho ửng đỏ là đạt yêu cầu điều trị, từ 5 đến 10 lần.
Mỗi động tác thực hiện 5 - 10 lần.
Toàn bộ các thủ thuật vùng đầu sẽ kéo dài khoảng 20 - 30 phút trong một lần xoa bóp. Tại mỗi điểm sau khi xoa bóp, vùng da tại điểm được xoa bóp phải ửng đỏ lên thì việc xoa bóp mới đượi coi là thành công.
Cần chú ý, khi có điểm đau (cự án: đau khó chịu khi ấn vào: điểm đau cấp) thì dùng thủ thuật nhanh, mạnh, thời gian ngắn. Khi có điểm đau (thiện án: đau dễ chịu khi ấn vào: điểm đau mạn) thì dùng thủ thuật nhẹ nhàng, thời gian hơi lâu.
Đo lại huyết áp sau khi xoa bóp, so sánh trị số 2 lần đo và triệu chứng nào được cải thiện gồm các triệu chứng đau đầu, chóng mặt, mỏi cổ gáy… sẽ thấy huyết áp và triệu chứng được cải thiện.
Mất ngủ là một chứng bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra: như tinh thần quá căng thẳng, lo phiền, suy nhược thần kinh, ăn uống không ngon, tiêu hóa kém. Y học cổ truyền có rất nhiều cách chữa trị chứng mất ngủ.
Sau đây xin đơn cử vài động tác đơn giản có tác dụng chữa mất ngủ để bạn đọc tham khảo và áp dụng.Xoa xát vùng mặt: Trước tiên hai tay xoa xát mạnh vào nhau khi thấy nóng thì dùng hai bàn tay xoa xát quanh mặt từ 10-20 vòng. Sau đó dùng hai ngón tay giữa luân phiên day nhẹ huyệt ấn đường (ở giữa hai đường lông mi) 20 lần rồi từ huyệt ấn đường vuốt nhẹ theo hai hàng mi tới huyệt thái dương, mỗi bên 30 lần (khi huyệt có cảm giác hơi căng thì dừng lại).Vuốt vùng tai: Hai ngón tay cái đặt phía ngoài tai (sau tai), hai ngón tay trỏ đặt phía trong tai (trước tai) vuốt từ trên xuống dưới (từ đỉnh tai đến dái tai) mỗi bên 20 lần. Khi cảm thấy tai nóng lên là được.Vuốt vùng cổ: Dùng hai ngón tay trỏ bấm huyệt an miên (nằm chỗ lõm bên cạnh chỗ xương lồi lên ở phía sau tai) mỗi bên 5 lần. Sau đó, dùng mặt trong của các ngón tay xoa xát từ trên xuống dưới cổ 20 lần (xoa nhẹ và chậm), khi cảm thấy nóng cổ lên thì dừng lại.Xoa vùng bụng (làm trước khi đi ngủ): Nằm ngửa, hai lòng bàn tay xoa xát vào nhau cho thật nóng, sau đó đặt tay lên bụng xoa theo chiều kim đồng hồ 20 vòng rồi lại xoa ngược lại 20 vòng.Day huyệt dũng tuyền: Buổi tối trước khi đi ngủ ngâm chân vào nước ấm, ngâm ngập đến mắt cá chân, khi da chân hơi đỏ, lấy ngón tay cái day huyệt dũng tuyền (nằm giữa chỗ lõm ở 1/3 phía trên gan bàn chân) mỗi bên 30 lần.Chú ý: Khi làm cần tập trung tinh thần và kiên trì thực hiện sẽ có hiệu quả rất nhanh.
Xoa bóp, bấm huyệt chữa mất ngủ

DAY BẤM HUYỆT CHỮA ĐAU ĐẦU

Picture
Đau đầu y học cổ truyền gọi là đầu thống. Do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, nhưng không ngoài ngoại nhân do ngoại tà (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa) hoặc nội nhân (do thất tình gây ra).Nếu đau đầu do phong hàn gây ra thường có biểu hiện: Đau đầu, cứng cổ, gặp gió đau tăng, đau nhức mình mẩy, không ra mồ hôi, miệng không khát, rêu lưỡi trắng mỏng. Để điều trị phải dùng phép sơ phong tán hàn. Nếu đau đầu do phong nhiệt gây ra, thường có biểu hiện: Đầu đau nặng như muốn vỡ ra, phát sốt, khát nước, mặt đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng. Để điều trị phải dùng phép sơ phong thanh nhiệt.

Nếu đau đầu do can dương thương cang thường có biểu hiện: Đau một bên, chóng mặt, mắt, mặt nóng đỏ, miệng đắng, phiền táo, dễ giận dữ. Để điều trị phải dùng phép bình can tiềm dương.


Nếu đau đầu do đàm trọc thường có biểu hiện: Đau một bên đầu, tinh thần không tỉnh táo, bụng đầy, ngực tức, lợm giọng, buồn nôn, ăn kém. Để điều trị phải dùng phép hóa đàm, giáng nghịch.

Y học cổ truyền có thể chữa đau đầu bằng thuốc, đồng thời có thể day bấm huyệt, xoa bóp chữa đau đầu có hiệu quả. Sau đây xin giới thiệu cách chữa đau đầu bằng day, bấm huyệt:


Thao tác: Để người bệnh ngồi hay nằm, thầy thuốc đứng phía sau người bệnh hay ngồi phía đầu giường, lần lượt thực hiện các động tác: phân, hợp vùng trán, thái dương. Làm từ trên xuống từ trong ra ngoài. Day vùng cổ gáy xuống tới đốt sống 3. Mỗi động tác 3 - 5 phút, sau đó bấm huyệtphong trì, bách hội, thái dương, ấn đường và hợp cốc, thời gian làm 20 - 30 phút, ngày 1 lần, có thể làm 1 - 7 lần.

Giải thích: Thao tác: 

Phân, hợp: Khi phân thì dùng ngón tay cái hay đầu 3 ngón 2, 3, 4 hoặc ô mô út, đặt sát nhau, kéo đều ra 2 bên. Nếu từ 2 bên kéo vào là hợp. Động tác phân hợp có thể làm trên trán, đầu mắt, bụng, lưng, ngực.

Day: Lấy ô mô cái, ô mô út hay gốc bàn tay ấn xuống da vùng huyệt người bệnh, di động theo đường tròn thuận chiều kim đồng hồ. Tay thầy thuốc và da người bệnh như dính vào nhau, làm cho da người bệnh di động theo tay thầy thuốc, làm khoan thai: sức ấn vừa sức chịu đựng của người bệnh, có thể tác động trực tiếp vào nơi đau.

Day và xoa hay dùng trong điều trị đau sưng.
Bấm, điểm: Dùng đầu ngón tay cái hay đầu ngón tay trỏ, cả 2 bên phải và trái, tác động lên huyệt, hay vị trí nhất định của cơ thể. Chú ý móng tay phải cắt ngắn, tránh gây xước, rách da. Muốn tạo lực bấm sâu cần gấp vuông góc đốt ngón 1 và 2. Bấm và điểm có tác dụng thấm sâu: tuy nhiên bấm thì giữ lực ấn lâu hơn, điểm thì lực tăng dần tác động nhanh, đột ngột hơn.

Picture

1 nhận xét: